Các nhà khoa học chính trị Mỹ đi đến kết luận rằng lý thuyết của thế giới dân chủ phổ quát, theo đó các chế độ chủ không thể đánh với nhau là sai lầm.
"Chúng ta đã đưa ra một phát kiến đáng ngạc nhiên, khi lập luận rằng giá trị của nền dân chủ chung trong việc ngăn chặn chiến tranh rất với các quy định chính của pháp luật về chính trị quốc tế" - Skyler Cranmer, một trong những tác giả hàng đầu của nghiên cứu nói.
"Nghiên cứu này bao quát một thời kỳ 50 năm. Theo ông, ngay cả các tổng thống Mỹ, tuyên truyền dân chủ, bản thân họ cũng không tuân thủ các nguyên tắc của nó",- Sue Henry, phó giáo sư của Khoa khoa học chính trị tại Đại học bang Ohio bổ sung.
"Tôi rất cổ vũ cho dân chủ bởi vì các chế độ này không đánh nhau. Người dân các xã hội dân chủ không thích chiến tranh, họ hiểu thế nào là chiến tranh ... Tôi tin rằng dân chủ có thể mang lại hòa bình. Và bởi thế tôi rất tin rằng cách thức của chúng tôi ở Trung Cận Đông - là sự phổ biến của dân chủ", - George W. Bush, một trong những người ủng hộ lý thuyết về hòa bình dân chủ, vào năm 2004 nói.
Nhắc lại rằng trong giai đoạn này quân đội Mỹ đã tiến hành những trận đánh khốc liệt tại Trung Đông và hỗ trợ cuộc xung đột của một "Israel" dân chủ" chống Palestine.
Cuối cùng, các nhà khoa học đã phát hiện ra rằng từ đây không phải các giá trị dân chủ, mà là các quan hệ kinh tế-thương mại và là tư cách thành viên trong các tổ chức quốc tế liên chính phủ đóng vai trò quyết định trong việc duy trì hòa bình giữa các nước. Tham gia vào các tổ chức này là "các quốc gia tỷ vàng" - Hoa Kỳ, Canada, Úc, EU và Israel, cũng như Nhật Bản và Hàn Quốc.
Hơn nữa, các nhà khoa học chính trị cho rằng chính bản thân khái niệm "thế giới dân chủ" cũng không tồn tại. Các kết quả nghiên cứu của mình các tác giả công bố trên tạp chí Proceedings of the National Academy of Sciences.
Kichbu theo tvzvezda.ru
(Kichbu Blog)
Tin Video
Khi 22 tuổi, Adam Smith đưa ra một tuyên bố nổi tiếng, “Điều kiện tiên quyết để đưa một quốc gia từ mức độ man rợ thấp nhất đến phồn thịnh cao nhất là không gì khác ngoài hòa bình, thuế khóa vừa phải, và một chính quyền tôn trọng công lý: mọi điều còn lại là do quá trình tự nhiên của sự vật đem tới.”[1] Ngày nay, gần 260 năm sau, chúng ta biết điều đó là hoàn toàn sai lầm.
Việc chiếc máy bay mang số hiệu MH370 của hãng hàng không Malaysia Airlines biến mất đã chứng tỏ Smith sai lầm ra sao khi nó làm nổi bật sự tương tác phức tạp giữa nhà nước và nền sản xuất hiện đại.
Để đảm bảo đi lại bằng hàng không khả thi và an toàn, nhà nước đảm bảo phi công biết cách lái máy bay và chiếc máy bay đó phải vượt qua các bài kiểm tra nghiêm ngặt. Họ xây dựng sân bay và cung cấp hệ thống ra-đa và vệ tinh để theo dõi các máy bay, kiểm soát không lưu để giữ chúng bay cách xa nhau, và các dịch vụ an ninh để ngăn chặn những kẻ khủng bố. Và, khi có sự cố, người ta không cần đến sự hỗ trợ từ hòa bình, thuế khóa hợp lý, và công lý; mà cần đến các cơ quan chính phủ chuyên nghiệp, có nguồn lực dồi dào.
Mọi nền kinh tế tiên tiến hiện nay có vẻ cần nhiều hơn những gì Smith dự đoán hồi ông còn trẻ. Các chính phủ không chỉ lớn và phức tạp, bao gồm hàng ngàn cơ quan chịu trách nhiệm quản lý hàng triệu trang quy tắc và quy định; họ còn dân chủ – và không chỉ bởi họ tổ chức bầu cử thường xuyên. Tại sao?
Khi xuất bản cuốn The Wealth of Nations[2] ở tuổi 43, Smith trở thành nhà khoa học về sự phức tạp (complexity scientist) đầu tiên. Ông hiểu rằng nền kinh tế là một hệ thống phức tạp cần phối hợp công việc của hàng ngàn người chỉ để tạo nên những thứ đơn giản như một bữa ăn hay một bộ đồ.
Nhưng Smith cũng hiểu rằng trong khi nền kinh tế quá phức tạp để một người có thể tổ chức được thì nó lại có khả năng tự tổ chức. Nó sở hữu một “bàn tay vô hình,” thứ hoạt động thông qua giá cả thị trường để cung cấp một hệ thống thông tin có thể dùng để tính toán rằng liệu việc sử dụng những nguồn lực cho một mục đích nhất định là có đáng hay không – tức là có lợi nhuận hay không.
Lợi nhuận là một hệ thống động lực khiến các doanh nghiệp và cá nhân đáp ứng lại các thông tin mà giá cả cung cấp. Và thị trường vốn chính là một hệ thống huy động nguồn lực, nó cung cấp tiền bạc cho các công ty và các dự án được mong đợi sẽ đem lại lợi nhuận – tức những dự án phản ứng hiệu quả với giá thị trường.
Thế nhưng sản xuất hiện đại lại đòi hỏi nhiều yếu tố đầu vào mà thị trường không thể cung cấp. Và như trong trường hợp của các hãng hàng không, các yếu tố đầu vào này – quy định, tiêu chuẩn, chứng nhận, cơ sở hạ tầng, trường học và trung tâm đào tạo, phòng thí nghiệm khoa học, các dịch vụ an ninh, và nhiều thứ khác khác – được kết hợp với những yếu tố có thể mua được từ thị trường. Chúng tương tác với các hoạt động mà thị trường tổ chức theo những cách thức phức tạp nhất.
Vậy vấn đề ở đây là: Ai kiểm soát việc cung cấp các yếu tố đầu vào cho công chúng? Thủ tướng? Cơ quan lập pháp? Thẩm phán hàng đầu đất nước nào đã đọc hàng triệu trang các quy định pháp luật hoặc xem xét chúng bổ sung hay mâu thuẫn lẫn nhau thế nào, chưa nói đến việc áp dụng chúng vào vô số hoạt động khác nhau bao gồm nền kinh tế? Ngay cả một tổng thống hành pháp (presidential executive)[3] cũng không thể nắm rõ những thứ được hay không được thực hiện bởi hàng ngàn cơ quan chính phủ và cách chúng ảnh hưởng đến từng phần của xã hội như thế nào.
Đây là một vấn đề cần nhiều thông tin, và cũng như các thách thức về mặt phối hợp xã hội mà thị trường giải quyết, nó không cho phép điều khiển theo hướng tập trung hóa. Điều cần thiết là một cơ chế tương tự bàn tay vô hình của thị trường: một cơ chế tự tổ chức. Bầu cử rõ ràng là không đủ, bởi chúng thường diễn ra hai hay bốn năm một lần và thu thập rất ít thông tin từ mỗi cử tri.
Thay vào đó, một hệ thống chính trị thành công phải tạo nên được một bàn tay vô hình thay thế – một hệ thống phi tập trung hóa quyền lực để có thể xác định được vấn đề, đề xuất giải pháp, và giám sát hiệu quả thực hiện, để các quyết định được đưa ra dựa trên nhiều thông tin hơn.
Để lấy một ví dụ, chính phủ liên bang Hoa Kỳ chỉ chiếm 537 ghế trong khoảng 500.000 vị trí dân cử của nước này. Rõ ràng, còn nhiều điều diễn ra ở những nơi khác.
Quốc hội Hoa Kỳ có 100 thượng nghị sĩ với 40 trợ lý cho mỗi người, và 435 dân biểu với 25 trợ lý cho mỗi người. Họ được tổ chức thành 42 ủy ban và 182 tiểu ban, có nghĩa là có 224 cuộc đàm thoại song song diễn ra cùng lúc. Nhưng nhóm gồm hơn 15.000 người này không tồn tại đơn lẻ. Đối mặt với họ là khoảng 22.000 chuyên gia vận động hành lang, mà một trong những nhiệm vụ của họ là cùng ngồi xuống với những nhà lập pháp để dự thảo các đạo luật.
Điều này, cùng với một nền báo chí tự do, là một phần của cái cấu trúc vốn giúp đọc hàng triệu trang luật và giám sát những gì các cơ quan chính phủ thực hiện hay không thực hiện. Nó tạo ra các thông tin và các động cơ để phản hồi lại nó. Nó ảnh hưởng đến việc phân bổ ngân sách. Nó là một hệ thống mở mà trong đó ai cũng có thể tạo ra tin tức hoặc tìm một chuyên gia vận động hành lang để được trợ giúp, cho dù đó là bảo vệ cá voi hay là ăn thịt chúng.
Nếu không có một cơ chế như vậy, hệ thống chính trị không thể cung cấp kiểu môi trường mà nền kinh tế hiện đại cần. Đó là lí do tại sao tất cả các nước giàu lại dân chủ, và tại sao một số nước, như của người viết bài này (Venezuela), đang trở nên nghèo hơn. Cho dù một số các nước này có tổ chức bầu cử, họ có xu hướng vấp ngã tại ngay cả những vấn đề phối hợp đơn giản nhất. Xếp hàng để bỏ phiếu không đảm bảo rằng người dân sẽ không còn phải xếp hàng để mua giấy vệ sinh.
Nguồn: Ricardo Hausmann, “Why Are Rich Countries Democratic?” Project Syndicate, Mar. 26, 2014.
Biên dịch: Nguyễn Huy Hoàng | Hiệu đính: Lê Hồng Hiệp
Ricardo Hausmann là cựu Bộ trưởng Kế hoạch của Venezuela và cựu Kinh tế trưởng của Ngân hàng Phát triển Liên Mỹ, giáo sư ngành Thực hành phát triển kinh tế tại Đại học Harvard, nơi ông giữ chức Giám đốc Trung tâm Phát triển Quốc tế.
———————-
[1] Xem Adam Smith. The Theory Of Moral Sentiments (Lý thuyết về cảm tính đạo đức), Quyển II Phần II Chương III – ND.
[2] Tên đầy đủ là Tìm hiểu về bản chất và nguồn gốc của cải của các quốc gia, bản tiếng Việt hiện nay dịch là Bàn về của cải quốc gia, hay Quốc phú luận – ND.
[3] Hình thức chính thể tổng thống chế, trong đó tổng thống có quyền lực mạnh, chẳng hạn như ở Hoa Kỳ. Ngược lại là hệ thống tổng thống hình thức (figurehead presidents), nghị viện có quyền lực mạnh, chẳng hạn như ở các nước Cộng hòa đại nghị – ND.
(Nghiên Cứu Quốc Tế)
Tin Video
1- Khi Phạm Quỳnh nói “Truyện Kiều còn, tiếng ta còn, tiếng ta còn, nước ta còn”, theo tôi sự “còn nước” không phải là ý chủ trong phát ngôn này của ông.
2- Sự thật là câu nói này “Truyện Kiều còn, tiếng ta còn, tiếng ta còn, nước ta còn”, được Phạm Quỳnh nói ra vào ngày mùng 8 tháng 12 năm 1924 đã chính là một viễn kiến vô cùng minh triết của ông về cái gọi là quốc gia dân tộc, tức những gì, mà phải mãi đến năm 1983 – sau ông đến 59 năm – Benedict Anderson mới khám phá ra trong cuốn sách nổi tiếng Imagined Communities, giải kết cấu cái huyền thoại quốc gia dân tộc, mà ở đó ông này cho rằng cái gọi là quốc gia dân tộc chỉ là các cộng đồng do tưởng tượng mà thành, trong đó có một nguyên nhân do chung ngôn ngữ, chứ không phải điều gì có tính căn nguyên.
3- Nhìn từ góc độ này, câu nói của Phạm Quỳnh phải được hiểu như một sự mở ra khả thể mới cho tư duy về quốc gia dân tộc, tức một khả thể có tính bao gộp, cộng thêm, chứ không nên hiểu nó một cách dốt nát như một tuyên bố có tính thải loại, theo trục ta địch (trục the They and the We), tức một tuyên bố đặt cơ sở trên một chủ nghĩa quốc gia bảo căn.
4- Vì lẽ đó, theo tôi, các trí thức trẻ Việt Nam, tức những người quen thuộc với tri thức cập thời của thế giới, cần phải nghiêm túc nghĩ đến việc giải cái oan tày đình; người theo thuyết quốc gia (nationalist) cho Phạm Quỳnh, một trong những nhân vật văn hoá vĩ đại của Việt Nam trong thế kỉ 20. Nói cách khác, việc tôn vinh Phạm Quỳnh – một người tinh thông văn hoá và ngôn ngữ Pháp (lúc đó chính là một nền văn hoá chủ của thế giới), một người mà cả cuộc đời cho đến cái chết oan khuất đều như thể nói lên kích thước lớn lao cúa mình, tức một kích thước mà không một người cùng thời nào có thể hiểu nổi ông – việc tôn vinh này theo tôi không khác gì sỉ nhục ông.
5- Những lớp người ngày xưa hiểu sai ông, do vô tình hay cố ý, do dốt nát hay mưu đồ, thì không chấp làm gì. Nhưng còn chúng ta, những người sống và hưởng lợi từ thời toàn cầu hoá, từ internet này, thì sao???? Hở các ông các bà các cô dì chú bác các anh các chị các em các cháu?
Nguyễn Như Huy
(FB Nguyễn Như Huy)
Tin Video
![]() |
Hình: rejuvenationmedia.com |
Các quốc gia nghèo khó là bởi chính phủ của họ tham nhũng. Và, trừ khi những nước này đảm bảo được rằng tài nguyên quốc gia không bị đánh cắp, và quyền lực công không bị sử dụng cho mục đích cá nhân, thì họ sẽ còn nghèo mãi, đúng không?
Quả là một ý tưởng hấp dẫn để chúng ta tin vào. Suy cho cùng, đây là dòng quan điểm cho rằng triển vọng về sự thịnh vượng cũng đồng nghĩa với việc đấu tranh chống lại bất công. Như Giáo hoàng Francis đã nói trong một chuyến thăm châu Mỹ Latinh gần đây: “tham nhũng là sâu mọt, là chứng hoại tử của loài người.” Những kẻ tham nhũng xứng đáng bị “buộc vào đá rồi ném xuống biển.”
Có lẽ họ đáng bị thế thật. Nhưng điều đó không nhất thiết giúp các quốc gia trở nên thịnh vượng hơn.
Hãy xem xét dữ liệu. Có lẽ biện pháp đo lường tham nhũng tốt nhất là Chỉ số Kiểm soát Tham nhũng (CCI) của Ngân hàng Thế giới, được công bố từ năm 1996 cho hơn 180 quốc gia. CCI chỉ ra rằng trong khi các nước giàu có xu hướng ít tham nhũng hơn các nước nghèo, các nước tương đối ít tham nhũng so với trình độ phát triển của họ, chẳng hạn như Ghana, Costa Rica, hay Đan Mạch, lại không hề tăng trưởng nhanh hơn các nước khác.
Cũng không quốc gia nào tăng điểm trên thang bậc của CCI, chẳng hạn như Zambia, Macedonia, Uruguay, hay New Zealand, phát triển nhanh hơn. Ngược lại, Chỉ số Hiệu quả Chính phủ của Ngân hàng Thế giới đã chỉ ra rằng những quốc gia có mức thu nhập tương đương với những ví dụ kể trên nhưng nếu có được một chính phủ tương đối hiệu quả hoặc có sự cải thiện về năng lực thì sẽ có xu hướng tăng trưởng nhanh hơn.
Bởi một số lý do – có lẽ liên quan đến bản chất của thứ mà nhà tâm lý Jonathan Haidt từ Đại học New York gọi là “tư duy chính nghĩa” – những tình cảm đạo đức thường khiến chúng ta đồng cảm khi đối mặt với nguy hại hay bất công. Vận động chống lại sự bất công thì dễ hơn vận động vì công lý. Chúng ta nhiệt tình khi chiến đấu với cái xấu – ví dụ như nạn đói và sự nghèo khổ – hơn là khi đấu tranh cho những thứ như các mô hình tăng trưởng và phát triển nhằm tạo ra lương thực dồi dào và sinh kế ổn định.
Đôi khi việc chuyển từ “cái xấu” sang “cái tốt” tương ứng đơn giản chỉ là vấn đề ngữ nghĩa: đấu tranh chống phân biệt chủng tộc tức là đấu tranh chống phân biệt đối xử. Nhưng đối với tham nhũng, nơi cái xấu được tạo ra bởi sự thiếu vắng của cái tốt, thì việc tấn công cái hủ bại khác xa việc tạo nên điều thiện lương.
Cái tốt trong trường hợp này là một nhà nước hữu hiệu: một hệ thống hành chính có thể bảo vệ đất nước và người dân, gìn giữ hòa bình, đảm bảo các luật lệ và khế ước, xây dựng cơ sở hạ tầng và cung cấp dịch vụ xã hội, điều tiết hoạt động kinh tế, thực hiện các nghĩa vụ dài hạn một cách uy tín, và dùng tiền thuế để chi trả cho mọi hoạt động. Sự thiếu vắng một nhà nước hữu hiệu đã tạo ra tham nhũng (tức là không đủ khả năng để ngăn chặn nhân viên công quyền, thường là khi họ cấu kết với những thành viên khác trong xã hội, khỏi bóp méo các chính sách công để tư lợi), cũng như đói nghèo và tụt hậu.
Một số người có thể lập luận rằng việc giảm thiểu nạn tham nhũng đòi hỏi phải có một nhà nước hữu hiệu; cái tốt được tạo ra trong cuộc chiến chống lại cái xấu. Nhưng có đúng thế không? Giáo viên và y tá thường không đến cơ quan khi không có lớp hay ca trực, nhưng không có nghĩa là chất lượng công việc của họ sẽ tốt hơn nếu họ đến. Cảnh sát có thể thôi đòi hối lộ, nhưng chuyện đó cũng chẳng khiến họ xuất sắc hơn trong việc ngăn ngừa và bắt giữ tội phạm. Cắt giảm những khoản chung chi cũng không phải là dấu hiệu chứng tỏ khả năng kiểm soát các hợp đồng nhượng quyền hay khả năng thu thuế.
Bên cạnh việc truy tố những phần tử hủ bại, những biện pháp chống tham nhũng thường bao gồm cải cách các quy định mua sắm công, các hệ thống quản lý tài chính công, và luật phòng chống tham nhũng. Giả định ở đây là những luật mới, khác với những luật cũ, sẽ được thực thi.
Đó không phải là những gì mà Uganda đã trải nghiệm. Năm 2009, dưới áp lực của cộng đồng các nhà viện trợ, chính phủ nước này đã ban hành một đạo luật được xem là luật phòng chống tham nhũng tốt nhất thế giới ở thời điểm đó; thế nhưng mọi chỉ số tham nhũng của họ vẫn cứ trở nên tệ hại hơn.
Uganda không phải phải là ngoại lệ. Đồng nghiệp của tôi ở Harvard, Matt Andrews, đã ghi nhận sự thất bại của các chương trình cải cách quản lý tài chính công trong việc ngăn chặn tham nhũng. Và những lý do dẫn đến sự thất bại này lại chẳng liên quan nhiều đến quản lý tài chính.
Mọi tổ chức đều muốn được nhìn nhận là hợp pháp. Họ có thể khiến mình được nhìn nhận như vậy bằng cách hoạt động thực tế đúng như mục đích thành lập, một điều không hề dễ dàng. Ngoài ra, họ có thể vay mượn từ thế giới tự nhiên một chiến lược gọi là sự bắt chước đẳng cấu (isomorphic mimicry): cũng như các loài rắn vô hại cố gắng ngụy trang để trông giống những đồng loại có nọc độc của chúng, các tổ chức cũng có thể khiến họ có vẻ giống như những thể chế có tính chính danh ở những nơi khác.
Và đây là những gì mà các nghị trình chống tham nhũng rốt cuộc thường khuyến khích: sự thành lập của các tổ chức bị ám ảnh quá mức với việc tuân thủ các quy trình mới và nặng nề, hơn là chú trọng vào việc đạt được các mục tiêu đặt ra ban đầu. Như Lant Pritchett, Michael Woolcock, và Andrew ở Harvard đã lập luận, khi những tổ chức không phù hợp áp dụng “các cách làm tốt nhất” (best practices) như các hệ thống quản lý tài chính công và các quy định mua sắm công, thì họ sẽ bị những thủ tục vốn làm méo mó quá trình ra quyết định này đẩy ra xa mục đích thành lập ban đầu.
Như Francis Fukuyama từng chỉ ra, sự phát triển của một nhà nước hữu hiệu có trách nhiệm và thượng tôn pháp luật là một trong những thành tựu đỉnh cao của văn minh nhân loại. Nó bao hàm sự cấu thành một ý niệm chung về “chúng ta,” một cộng đồng tưởng tượng mà các quốc gia hành động nhân danh họ.
Đây không phải là nhiệm vụ dễ dàng khi các xã hội đang bị chia rẽ sâu sắc bởi các vấn đề sắc tộc, tôn giáo, và địa vị xã hội. Rốt cuộc thì ai sẽ được nhà nước đại diện cho? Tất cả dân chúng Iraq hay chỉ là cộng đồng người Shia ở quốc gia này? Mọi cộng đồng ở Kenya hay chỉ là sắc dân Kikuyu? Điều gì ngăn cản một nhóm nhỏ cầm quyền hiện tại thu vén lợi ích về phía họ bằng lập luận rằng “giờ thì đến lượt chúng tôi thụ hưởng?” Tại sao những nhân vật đang vận hành quốc gia không nên biến nó thành gia sản của họ, như ở Venezuela, nơi mà đã hơn 2 năm kể từ khi cựu Tổng thống Hugo Chávez qua đời, các con gái ông vẫn bám trụ trong dinh tổng thống?
Cuộc chiến chống tham nhũng kích thích tất cả chúng ta bởi mọi người đều muốn diệt trừ cái ác và bất công. Nhưng nên nhớ rằng ném cái xấu xuống biển không có nghĩa là cái tốt mà chúng ta cần sẽ đột ngột xuất hiện.
Nguồn: Ricardo Hausmann, “Fighting Corruption Won’t End Poverty,” Project Syndicate, 24/07/2015.
Biên dịch: Vũ Đình Khanh | Hiệu đính: Nguyễn Huy Hoàng
Ricardo Hausmann là cựu Bộ trưởng Kế hoạch của Venezuela và cựu Kinh tế trưởng của Ngân hàng Phát triển Liên Mỹ, và là Giáo sư ngành Thực hành Phát triển Kinh tế tại Đại học Harvard, nơi ông giữ chức Giám đốc Trung tâm Phát triển Quốc tế.
Copyright: Project Syndicate 2015 – Fighting Corruption Won’t End Poverty
(Nghiên Cứu Quốc Tế)
Tin Video
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)